Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Cuộc Cách Mạng Nhung tại Séc-Slovakia tháng 11 năm 1989: Một cách nhìn khác (Phần I)


Sự kiện tháng 11 năm 1989 ở Séc-Slovakia hoàn toàn không phải là một cuộc cách mạng tự phát của quần chúng nhân dân. Đó là một thay đổi có tính bước ngoặt được chuẩn bị từ trước. Phe cộng sản đã khôn khéo lợi dụng sự non nớt, thiếu kinh nghiệm thực tế, cũng như những sai lầm và yếu điểm của lực lượng dân chủ trong thời kỳ đàm phán, gặt hái được nhiều lợi ích cho họ.
Chia sẻ bài viết này
Cuối năm nay, nhân dân hai nước Cộng Hoà Séc và Cộng Hoà Slovakia, hai quốc gia trước kia thuộc Liên bang Cộng Hoà Séc-Slovakia, một quốc gia nhỏ ở Trung Âu có tên gọi chính thức trong những năm 1918-1960 (trừ thời gian chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945) là Cộng hòa Séc - Slovakia (có hoặc không có gạch nối), trong những năm 1960-1989 Cộng hòa XHCN Séc-Slovakia (không có gạch nối), và trong thời kỳ 1989-1992 là Liên Bang Cộng Hòa Séc và Slovakia, sẽ kỷ niệm 25 năm ngày xảy ra sự kiện có ý nghĩa vô cùng trọng đại trong lịch sử của hai dân tộc. Đó là sự kiện được toàn thế giới biết đến dưới tên gọi cuộc Cách Mạng Nhung tháng 11 năm 1989. Sau sự kiện ra đời của nước Cộng Hòa Séc-Slovakia vào năm 1918, đây là bước ngoặt quyết định nhất trong diễn biến chính trị-xã hội cũng như kinh tế ở quốc gia Trung Âu này, chấm dứt một thời kỳ dài dưới chế độ cộng sản toàn trị, chuyển sang thời kỳ dân chủ và kinh tế thị trường theo các định chuẩn phương Tây.
Theo quan điểm được thế giới biết đến nhiều nhất, cũng phổ biến nhất tại Séc-Slovakia, đồng thời được quảng bá nhiều nhất trên các phương tiện thông tin đại chúng và được giảng dạy ở nhà trường – tức là quan điểm chính thống – thì vào tháng 11 năm 1989, quần chúng nhân dân ở Séc-Slovakia đã tự phát, nhất loạt đứng lên đấu tranh chống chính quyền cộng sản, buộc giới lãnh đạo cộng sản nước này phải chấp nhận đàm phán với lực lượng dân chủ đối lập, thành lập một chính phủ lâm thời đa thành phần và sau đó tổ chức đợt tổng tuyển cử tự do đầu tiên vào năm 1990 sau nhiều năm dài dưới chế độ toàn trị. Cuộc cách mạng này là đỉnh cao của phong trào đấu tranh dân chủ ngày càng mạnh mẽ và lan rộng trong những năm 80 của thế kỷ trước ở Séc-Slovakia, với sự ủng hộ ngày càng cao của quần chúng nhân dân vốn phải chịu nhiều hạn chế trong quyền tự do công dân, thiệt thòi trong quyền lợi xã hội-chính trị dưới một chế độ toàn trị hà khắc, phải đương đầu với đời sống ngày càng khó khăn do nền kinh tế XHCN xuống dốc, lại được ủng hộ về mặt tinh thần của công cuộc đổi mới perestroika của ông Goóc-ba-chốp ở Liên Bang Xô-Viết, của các thành quả và tiến bộ của phong trào dân chủ ở các nước láng giềng, trước hết là ở Ba Lan, Hung-ga-ri và Đông Đức. Cuộc cách mạng này được gọi là Cách Mạng Nhung vì có diễn biến hòa bình, êm ả, có thể nói là không xảy ra xung đột vũ lực lớn và không có đổ máu. Đó là quan điểm chính thống.
Tuy nhiên, còn có một quan điểm nhìn nhận, đánh giá khác về sự kiện lịch sử này, được biết tới nhiều nhất dễ hiểu là ở hai nước Séc và Slovakia, và ở một chừng mực nào đó cũng được biết đến ở một số nước phương Tây. Các điểm chính trong đánh giá, nhìn nhận này gồm:
1. Sự kiện tháng 11 năm 1989 ở Séc-Slovakia hoàn toàn không phải là một cuộc cách mạng tự phát của quần chúng nhân dân. Đó là một thay đổi có tính bước ngoặt được chuẩn bị từ trước.
2. Phe cộng sản đã khôn khéo lợi dụng sự non nớt, thiếu kinh nghiệm thực tế, cũng như những sai lầm và yếu điểm của lực lượng dân chủ trong thời kỳ đàm phán, gặt hái được nhiều lợi ích cho họ.
Cùng với dòng thời gian, ngày càng có nhiều tài liệu lịch sử mới được biết tới và được công bố, nhiều tin chứng, hồi tưởng, thổ lộ, thú nhận và cân nhắc lại của những người trong cuộc, của những tên tuổi quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội và kinh tế cho thấy những đánh giá, nhìn nhận không chính thống trên không phải là hoàn toàn vô bổ, vô căn cứ mà ngược lại, chúng ngày càng có tính thuyết phục hơn cho nhiều người. Người ta thấy chúng đáng được để được để tâm tới nhiều hơn, nghiêm túc hơn.
Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét những sự việc, tình tiết trong diễn biến chính trị tại Séc-Slovakia trong và sau cách mạng Nhung, những khẳng định và nhận xét của những người trong cuộc, có hiểu biết và nghiên cứu sự kiện này có thể được xem như những lý lẽ và bằng chứng khẳng định, bênh vực cho các đánh giá, nhìn nhận trên.

1. Sự kiện tháng 11 năm 1989 hoàn toàn không phải là một cuộc cách mạng tự phát của quần chúng chống lại chế độ Cộng Sản. Đó là một thay đổi có tính bước ngoặt được chuẩn bị từ trước

Cuộc Cách Mạng Nhung, hay cuộc đảo chính tháng 11 năm 1989 – tùy theo cách gọi – bùng nổ vào ngày 17.11.1989, được khởi đầu bằng một cuộc biểu tình, thực chất là một cuộc tuần hành bắt đầu vào khoảng bốn giờ chiều tại thủ đô Praha. Có một chi tiết quan trọng mà các nguồn tin nước ngoài ít chú ý tới là cuộc tuần hành này được chính quyền chính thức cho phép (Ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia trực tiếp phê duyệt và tiếp sau là Ủy Ban Quốc Gia Quận chấp lệnh), tổ chức dưới sáng kiến của nhóm sinh viên độc lập có tên STUHA, với sự cộng tác và bảo trợ của Đoàn Thanh Niên Xã Hội Chủ Nghĩa (SSM) tổ chức để tưởng niệm sinh viên Jan Opletal, người đã chết sau khi bị đánh trọng thương trong lúc tham gia một cuộc biểu tình chống chủ nghĩa quốc xã vào tháng 10 năm 1939, trong thời gian Cộng Hoà Séc bị Đức chiếm đóng. (Theo Báo cáo tổng kết của Hội Đồng Quốc Hội Liên Bang Séc-Slovakia giám sát việc làm rõ các sự kiện trong ngày 17.11.1989).
Bài viết đăng điện tử của Đài truyền hình Séc CT24 ngày 17.11.2009 cơ bản khẳng định điều trên. Theo bài viết này thì cuộc tuần hành này được tổ chức bởi lực lượng sinh viên độc lập, dưới sự bảo trợ của Đoàn Thanh Niên XHCN, với tinh thần tránh gây khiêu khích. Các đại diện chính của giới chống đối hoàn toàn không tham gia vào hoạt động này, họ dự kiến sẽ tổ chức một hoạt động lớn vào ngày 10.12.1989 nhân dịp Ngày Quyền Con Người. Giới chính quyền Cộng Sản cũng không tính đến việc đối đầu với lực lượng tuần hành; các đơn vị cảnh sát nhận được mệnh lệnh chính thức tránh không can thiệp, tuy nhiên, họ nhận được lệnh cản trở không để lực lượng tuần hành vào trung tâm Praha. Quả nhiên như vậy, sau khi chương trình tuần hành kết thúc vào lúc 18 giờ thì phần đông trong số 15 nghìn người tham gia đã đi theo hướng vào trung tâm thành phố, lực lượng cảnh sát tìm cách ngăn cản họ, đã có những va chạm đầu tiên xảy ra, đoàn người đi theo các phố phụ tới Nhà hát quốc gia và đi tiếp dọc theo Đại lộ quốc gia. Vào khoảng 19 giờ 30 phút, cảnh sát dùng lực lượng khóa hai đầu, dồn khoảng 10 nghìn người tham gia tuần hành vào giữa, khi cảnh sát cho mở lối thoát ra vào khoảng 20 giờ 30 phút thì do những nguyên nhân cho tới tận ngày nay không được làm rõ, đã xảy ra xung đột vũ lực giữa hai bên, tất cả có khoảng 560 người của phía tuần hành bị thương.
Yếu tố quyết định, đóng vai trò ngòi nổ cho cuộc cách mạng sau đó là tin có một sinh viên khoa Toán-Lý trường ĐH Karlova có tên Martin Smid đã bị đánh chết trong cuộc tuần hành vào ngày 17.11.1989. Tin này được nhanh chóng lan truyền ở Praha cũng như trong cả nước (Đài Châu Âu Tự Do cũng ngay lập tức cho phát tin này), gây phẫn nộ trong đông đảo quần chúng nhân dân, thúc đẩy họ đồng loạt tham gia các cuộc biểu tình, đình công, bãi công bày tỏ bất bình, phản đối trước lãnh đạo chính quyền Cộng Sản. Các hoạt động này nhanh chóng phát triển thành một làn sóng dân chủ đòi hỏi phải có thay đổi thể chế chính trị. Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau đó thì người ta mới ngã ngửa người ra khi biết tin này lại là tin giả. Tại khoa Toán-Lý trường ĐH Karlova quả thật có hai sinh viên tên Martin Smid, một người không tham gia cuộc tuần hành ngày 17.11.1989, người thứ hai bỏ về trước khi có can thiệp của cảnh sát (người thứ hai sau có lên truyền hình để cải chính tin, nhưng đã quá muộn). Trong lúc đó, Ludvik Zifcak, một nhân viên an ninh quốc gia StB, đã ra tự thú nhận rằng chính ông ta đã đóng vai người sinh viên bị đánh chết này. Ông Zifcak này một trong những người dẫn đầu đoàn tuần hành (các tin chứng của người tham gia biểu tình, ảnh chụp và đoạn phim quay ca-mê-ra còn giữ được cũng chứng thực điều này), sau đó đóng cảnh bị cảnh sát dùng dùi cui đánh ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự trước mặt nhiều người rồi được xe cứu thương quân đội chở đi.
Một bài phỏng vấn ông Zifcak do ông Robert Buchar, một nhà làm phim kiêm đạo diễn Mỹ, thực hiện, đã được tác giả trích đăng trong cuốn sách có tựa đề “And Reality Be Damned ..." (tạm dịch: Còn sự thực thì cứ để cho người ta la ó), một cuốn sách được viết dựa trên bộ phim tài liệu The Collapse of Communism – The Untold Story (Sự tan rã của chế độ Cộng Sản – câu chuyện không được kể) làm vào năm 2009 của chính tác giả, với nột dung chính: cái gọi là phong trào tự do dân chủ tự phát ở Đông Âu trong năm 1989 về thực chất là một đợt đảo chính được điều khiển từ phía Mát-xơ-cơ-va qua bàn tay KGB. Trong bài phỏng vấn này, ông Zifcak khẳng định chính ông ta là người đóng vai "người sinh viên bị đánh chết", đồng thời cho biết công việc chuẩn bị cho vai diễn của ông ta đã được chuẩn bị từ trước đó khá lâu. Theo kế hoạch thì sau khi hoàn thành xong nhiệm vụ này, lẽ ra ông ta phải nhận được mật lệnh tiếp theo để đi ra nước ngoài (lúc làm nhiệm vụ, ông Zifcak mang trong người hộ chiếu giả, chứng minh thư giả, cả vé máy bay và tiền để dùng ở nước ngoài, hiện nay ông vẫn giữ những vật này). Tuy nhiên, theo lời ông Zifcak ông ta lại không nhận được mật lệnh nào nữa, và cũng do có lo sợ cho gia đình nên ông ta đã ở lại trong nước. Ông Zifcak cho biết mục đích hoạt động của ông ta là: “Mục đích là hoàn toàn rõ: khơi gọi một tình thế có tính phát nổ, trên cơ sở đó tạo ra điều kiện để xuất hiện bắt buộc phải có thay đổi trong lãnh đạo cao nhất trong nội bộ Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia.” Tất nhiên là ông Zifcak không thể tự ý thực thi một nghiệp vụ quan trọng như vậy. Ai đã ra lệnh cho ông ta, điều này ông Zifcak không tiết lộ mà chỉ khẳng định là lệnh này xuất phát từ cấp trên, đồng thời ông ta cũng có hàm ý cho rằng đó là từ giám đốc an ninh nhà nước Alojz Lorenc. Ngoài ra ông Zifcak có dự đoán là cấp trên của ông ta nhận được lệnh này từ một ai đó trong nhóm lãnh đạo cao nhất trong Đảng CS Séc-Slovakia, liên quan thậm chí còn có thể đi xa hơn nữa: “Chắc chắn không phải là CIA. Hoạt động này được tổ chức ra từ phương Đông, tức là từ Liên bang Xô-viết.”
Theo tin tức của ông Zifcak thì: “Sự việc trong ngày 17.11 đó lẽ ra phải được tiếp nối bằng những hoạt động, bước đi tiếp theo. Đó phải là những bước đi chính trị để dẫn đến sự từ chức của một số quan chức lãnh đạo cấp cao trong đảng. Và lẽ ra phải có những hoạt động an ninh để giải quyết các vấn đề trong đất nước. Một điều gì đó tương tự như ở Ba Lan. Tức là phe đối lập lẽ ra phải bị bắt giữ trong vòng 24 giờ, phố xá được Tự Vệ Nhân Dân, quân đội cai quản. Điều này sẽ có nghĩa là mọi việc sẽ được giải quyết trong vòng 3-4 ngày theo hướng thắng lợi cho Đảng Cộng Sản. Sự việc không diễn ra như vậy cho thấy công tác giải quyết chính trị không đi đúng dự định.”
Thông tin sai lệch về người sinh viên bị giết chết được lan truyền rộng rãi khắp Praha qua cô Drahomira Drazska, cũng được cho là nhân viên an ninh nhà nước StB. Chính cô ta là người đã thông tin cho ông Petr Uhl, một phần tử chống đối nòng cốt, thành viên Hiến Chương 77 (tổ chức đối kháng quan trọng nhất tại Séc-Slovakia trong thời kỳ Cộng Sản), để ông này chuyển tiếp tới đài Châu Âu Tự Do và Reuters, từ đây, tin này được nhanh chóng truyền đi mọi nơi. Tuy nhiên, trong bài đăng trên trang điện tử của Đài Truyền Hình Séc CT24 ngày 18.11.2009, cô Drazska khẳng định cô ta không làm việc cho StB, rằng bản thân cô ta cũng bị thương trong vụ 17.11.1989, cái tin về người sinh viên bị chết là do cô ta tự nghĩ ra khi nằm trong bệnh viện. Ngược lại, Ludvik Zifcak khẳng định cô ta làm việc trong nhóm phụ trách vụ việc “sinh viên bị đánh chết”, với nhiệm vụ “họ phải đảm bảo làm sao để thấy có người nằm dưới đất, để có các nhân chứng đáng tin cậy đứng gần đó. Ít nhất là có bốn người đứng ở đó thật, họ thấy có xe cứu thương quân đội tới …”. Ông này cũng cho biết thông tin rằng vào ngày 13.11.1989, người trong Hiệp hội sinh viên độc lập cùng người của Đội An Ninh Quốc Gia SNB và với một số thành viên của Hiến Chương 77 (trong đó có ông Petr Uhl đã nói tới ở trên) đã có một cuộc gặp gỡ để thống nhất kế hoạch có tên PHÁT NỔ nhằm cài người vào đoàn tuần hành trong ngày 17.11 để thực hiện khiêu khích khiến lực lượng cảnh sát phải ra tay; cái tên Martin Smid cũng được nhắc tới trong mối liên hệ với cái tên Drahomira Drazska trong cuộc gặp này.
Những thú nhận của ông Ludvik Zifcak tóm lại cho thấy sự kiện 17.11.1989 có thể là một sự kiện được An Ninh Nhà Nước StB chuẩn bị từ trước, điều hành trực tiếp. Và trong một quốc gia với chế độ CS thì khả năng có mối quan hệ trực tiếp giữa An Ninh Nhà Nước và lãnh đạo cao cấp của Đảng CS trong một hoạt động quan trọng như vậy của cơ quan này rõ ràng là rất cao.
Cần bổ xung ở đây là các cuộc điều tra chính thức sau đó không khẳng định giả thuyết âm mưu thông đồng của ông Zifcak. Tòa án chỉ khẳng định một điều là ông Zifcak đã hoạt động tình báo cho An Ninh Nhà Nước StB dưới tên tuổi và vai trò Milan Ruzicka, sinh viên trường Đại Học Mỏ tại Ostrava có tiếng tăm trong giới sinh viên vì những hoạt động dân chủ, đã sáng lập ra Hiệp Hội Sinh Viên Độc Lập; trong buổi chiều ngày 17.11.1989 ông Zifcak đã cùng người của hội này lái dòng người tuần hành vào trung tâm thành phố, tiếp đó vào vòng vây chờ sẵn của An Ninh Nhà Nước StB. Tòa vì vậy đã tuyên án ông ta 16 tháng tù, tuy nhiên sau 8 tháng thực hiện án, ông ta được thả ra có điều kiện.
Để nhận xét ngắn gọn về các cuộc biểu tình, tuần hành tại Séc-Slovakia trong thời kỳ trước sự kiện 17.11.1989 thì có thể thấy rằng tuy trong những năm 80 của thế kỷ trước, tại quốc gia này đã xuất hiện các cuộc biểu tình hay tuần hành đòi hỏi dân chủ, có biểu hiện phản đối lãnh đạo nhà nước CS nhưng đó chỉ là những hoạt động lẻ tẻ, hãn hữu. Chỉ từ năm 1988 trở đi thì tần số và qui mô các cuộc biểu tình như thế mới tăng lên đáng kể. Có các bằng chứng cho thấy các cơ quan phụ trách an ninh như An Ninh Nhà Nước StB, Đội An Ninh Quốc Gia SNB hay An Ninh Công Cộng (tức Công An) VB đã tìm cách cài người của mình vào lực lượng dân chúng tham gia biểu tình với mục đích lan truyền thông tin, ý kiến, lý lẽ có lợi cho chế độ đồng thời tìm kiếm bằng chứng để kết tội những phần tử chủ chốt. Điều này chẳng có gì là đáng ngạc nhiên, là hoàn toàn có thể dự đoán được. Tuy nhiên, lại có những bằng chứng cho thấy có khả năng chính người của Đảng Cộng Sản đứng đằng sau một số cuộc biểu tình hay tuần hành. Tài liệu có tên gọi "Nói ra hết và không ỉm dấu bất kỳ điều gì" đăng tải toàn bộ lời khai của các nhân chứng trước Hội Đồng Quốc Hội Liên Bang phụ trách điều tra các sự kiện ngày 17.11.1989 bao gồm một phát hiện trớ trêu: chính ông Jiri Solil, sinh viên luật, đại diện của Đoàn Thanh Niên XHCN trong Hội Đồng này, lại là thành viên của một nhóm đoàn viên và đảng viên cộng sản trẻ đã qua thử thách, được người của Đảng CS chọn lựa ra để chuẩn bị cho nhiệm vụ gây dựng nghi ngờ trước những phát biểu của các đại diện phe đối kháng, đồng thời tạo dựng không khí thuận lợi cho cải cách thực sự, tức là cải cách CS. Cùng với nhóm này, ông Solil được tham gia một đợt huấn luyện bí mật do Đảng CS tổ chức vào mùa hè 1989. Ngay sau đó, ông ta đã được người của tổ chức mời đến tham gia hoạt động đầu: cuộc biểu tình vào ngày 21.9 kỷ niệm ngày quân đội khối Vác-xa-va xâm nhập Séc-Slovakia với mục đích, như theo lời khai của ông Solil: "để chúng tôi thấy rõ rằng các quan điểm của phe đối lập là sai lầm và rằng sẽ không xảy ra bất kỳ một can thiệp vũ lực hung bạo nào". Các thành viên trong nhóm đã tham gia huấn luyện được trao một tờ giấy có ghi ba số điện thoại phòng cho trường hợp bị bắt giữ. Đáng chú ý ở đây là thông tin: “Người ta cho chúng tôi biết đó là một hoạt động của Đảng CS, đồng thời bảo chúng tôi không quá tin vào lực lượng an ninh, nếu có gì chỉ cần đưa cho họ xem tờ giấy là đủ, không tranh luận với họ.” Lời khai của ông Solil ủng hộ cho nhận định rằng có sự phân hóa và âm mưu, tính toán bí mật nào đó trong nội bộ giới lãnh đạo Đảng CS Séc-Slovakia.
Ngay sau sự kiện tháng 11 năm 1989, ông Miroslav Dolejsí, nguyên tù nhân chính trị của chế độ CS, đã công bố bản Phân tích sự kiện 17.11.1989 (đăng trên http://www.szcpv.org/04/an1.html). Đây là một bản phân tích dầy dặn và chi tiết, được cho là có tính thuyết phục cao và thường được trích dẫn tới để bảo vệ cho khẳng định sự kiện này thực chất là một cuộc đảo chính trong nội bộ Đảng CS Séc-Slovakia, được chuẩn bị kỹ càng.
Trích dẫn từ bản Phân tích này về sự kiện tháng 11 năm 1989:
“Cuộc đảo chính này thực chất đã được chuẩn bị khoảng từ tháng 5 năm 1988, các tình huống dẫn đến đảo chính đã được phát triển và phân tích, đánh giá từ các đợt rà soát, chỉnh huấn trong nội bộ Đảng CS nước này trong các năm 1969-1970, cũng như qua việc thành lập Hiến Chương 77. Khẳng định này có thể được chứng minh bởi các thực tế sau:
1. Các cuộc đảo chính ở tất cả các nước CS Châu Âu đã diễn ra một cách có dàn dựng, có phối hợp với nhau về thời điểm, trong quãng thời gian 7 tháng. Từ phương diện tâm lý học và xã hội học, khả năng để các cuộc đảo chính này được thực hiện một cách tự phát, thực hiện bởi lực lượng quần chúng không có tổ chức, chống lại quyền lực vô hạn của chính phủ cộng sản tại các nước này, được đảm bảo về mặt quân sự và anh ninh bởi siêu quyền lực thứ hai trên thế giới – Liên bang Xô-viết – là điều không tưởng.
2. Kết quả của tất cả các cuộc đảo chính trên là quyền lực vẫn nằm trong tay các đảng CS – ít nhiều trá hình (đổi tên, sửa đổi chương trình hoạt động một cách chiến thuật, …)
3. Phong trào đối kháng ở tất cả các nước này được xây dựng bởi các đảng viên CS cũ, vốn giữ các chức vụ có tính trang trí trong hệ thống quyền lực của đảng, sau đó rời khỏi đội ngũ chính thức, bị theo dõi hay cầm tù giả tạo – một phương pháp làm cho các đối tượng này trở nên có tiếng tăm - được đài báo phương Tây giúp sức tuyên truyền.
4. Mục tiêu cốt lõi của các cuộc đảo chính trên là thực thi phương sách phân chia quyền lực mới ở Châu Âu, mở đầu bằng việc thống nhất Châu Âu, trước hết là thống nhất nước Đức. Các cuộc đảo chính ở các nước CS Châu Âu được tổ chức nhằm ủng hộ việc thống nhất nước Đức và được điều khiển ăn khớp về thời gian với quá trình thống nhất này.
5. Có khả năng rất cao là hình thức và diễn biến các cuộc đảo chính ở Châu Âu là nội dung một hiệp ước giữa Reagan và Goóc-ba-chốp vào tháng 5 năm 1988, khi Reagan thăm Mát-xơ-cơ-va. Kể từ thời điểm nêu trên công cuộc chuẩn bị đảo chính ở tất cả các nước CS Châu Âu hiện hình rõ (thành lập các nhóm đối kháng ở Bul-ga-ri, Ru-ma-ni, Hung-ga-ri và công cuộc tuyên truyền từ phương Tây, tăng cường các hoạt động chống đối chính phủ, …)
6. Một bộ phận rõ ràng của các thỏa thuận trên là thống nhất sử dụng các tập đoàn lãnh đạo CS để giữ trật tự và để bảo lưu ảnh hưởng của phong trào CS quốc tế trong hệ thống quyền lực các nước sau đảo chính. Để phục vụ cho mục đích này, CIA và KGB đã cộng tác với nhau, các ủy ban chung của hai cơ quan tình báo này đã điều khiển các cuộc đảo chính cũng như lựa chọn, thông qua nhân lực cho các chính phủ mới.
7. Tuyên bố của các chính phủ mới sau đảo chính về thông hiểu dân tộc không phải là một hành vi nhân đạo mà là một biện pháp nhằm phục hồi vị thế cho giới đảng viên CS, để họ tiếp tục tham gia chia sẻ quyền lực chính trị. Biện pháp này được điều khiển bởi các thỏa thuận giữa Liên bang Xô-viết và Mỹ (KGB – CIA). Để thực hiện cho mục tiêu này, trước đó 12 năm, khái niệm quyền con người đã được đề xướng, ý nghĩa của khái niệm này bắt đầu được áp dụng trong các chính sách chính trị và các thỏa thuận giữa hai cường quốc, trở thành chỗ dựa tin cậy cho các chiến thuật của họ. Hoạt động tham gia của các nhân vật đối kháng trong phong trào quyền con người sau này sẽ tạo điều kiện biện hộ cho thái độ nhân nhượng, cũng như cho cộng tác chia sẻ quyền lực của họ với CS, mức độ cộng tác giữa hai lực lượng trong lĩnh vực quyền lực trong thực tế là lớn hơn rất nhiều so với mức độ nhìn nhận, đánh giá được theo bề ngoài.
8. Cuộc đảo chính chính trị ở Séc-Slovakia cũng như đường lối chính trị của chính phủ Vaclav Havel tuyệt đối không phải là công việc nội bộ của nước này mà là một bộ phận của chiến thuật chính trị của cặp đôi Liên bang Xô-viết – Mỹ ở châu Âu. Bất kể giả thuyết nào khác dùng cho việc phân tích và dẫn giải đường lối chính trị này đều sẽ không thành công.” (Hết trích dẫn)
Theo Bản Phân Tích, diễn biến chính trị tại Séc-Slovakia bắt đầu khẩn trương rõ rệt từ mùa thu năm 1988, khi "ông John Whitehead, tư vấn của tổng thống Mỹ, trong cuộc đi thăm kéo dài 12 ngày tại Đông Âu nhận thấy rằng tình hình chính trị cho phép để công tác chuẩn bị đảo chính có thể bắt đầu. Đối với Séc-Slovakia (Hiến Chương 77), điều này đồng nghĩa với hiệu lệnh ra hoạt động công khai, thành viên của Hiến Chương 77 đã thành lập hàng loạt các nhóm làm việc, được gọi là các sáng kiến độc lập như Hội những người bạn bè của nước Mỹ, Phong Trào Tự Do Dân Chúng, Sáng Kiến Dân Chủ, Phục Sinh (liên đoàn các nhà CS cũ từ năm 1968) vv…v." Trong nội bộ lãnh đạo Đảng CS, cụ thể là trong Ban Chấp Hành TW Đảng xuất hiện một nhóm có tư tưởng tiến bộ hơn, muốn cải cách chính trị theo hướng Perestroika của ông Goóc-ba-chốp, đứng đầu là ông Rudolf Hegenbart, chủ tịch bộ phận phụ trách hành chính nhà nước, bộ phận chỉ đạo những mảng quan trọng nhất của quyền lực nhà nước: quân đội, công an, tòa án và công tố. Có sự hỗ trợ từ Đảng CS Liên Xô và liên kết chặt chẽ với phong trào Hiến Chương 77, nhóm này có kế hoạch hạ bệ nhóm bảo thủ của tổng bí thư Milos Jakes, tiến hành các biện pháp cải cách, tăng cường tính dân chủ hóa trong đường lối lãnh đạo đất nước.
Khi xem xét cụ thể về các diễn biến cụ thể trong ngày 17.11.1989, bản Phân Tích viết:
"Để bổ xung cho những sự việc công luận đã biết về diễn biến của cuộc đàn áp trên Đại lộ quốc gia, có thể chỉ tiếp ra những điểm sau:
a) Khoảng hai giờ trước khi dòng người tuần hành đi tới Đại lộ quốc gia, các chuyến xe điện đã ngừng chạy ở cả hai chiều. Công ty giao thông như vậy phải nhận được lệnh có liên quan khoảng 3 giờ trước đó. Đồng thời, Đại lộ quốc gia được dẹp trống (còn rất ít người).
b) Các nhóm trực ban thuộc Đội An Ninh Quốc Gia SNB được chuẩn bị sẵn sàng hành động ở phố Mikulandska (một phố dẫn vào Đại lộ quốc gia) ba giờ trước khi dòng người tuần hành tới Đại lộ quốc gia.
c) Khoảng 1 giờ trước khi dòng người tuần hành tới, cổng tất cả các tòa nhà nằm dọc Đại lộ quốc gia, từ Pernstyn tới Nhà Hát Quốc Gia được khóa lại.
d) Trung đội can thiệp (thuộc Bộ Phận Huy Động Nhanh), được đặt trong tình trạng sẵn sàng số 3 (thành viên được ở nhà nhưng sẵn sàng nghe điện thoại), nhận được lệnh qua điện thoại lập tức quay trở lại đơn vị vào lúc 10 giờ 30 (8 giờ trước khi được huy động), tức là khoảng 4 giờ trước khi cuộc tuần hành bắt đầu. Sau khi quay lại đơn vị, binh sĩ của trung đội được đặt trong trạng thái sẵn sàng xuất kích. Khi trung đội này được tập trung trong đồng phục ngụy trang và mũ ngụy trang, họ nhận được lệnh đeo mũ nồi đen, vốn là một phần của đồng phục mặc khi ra ngoài. Vào lúc 11h30, trung đội này được chở bằng xe bus tới phố Bartolomejska để tập trung. Từ lúc 13.45, họ được phổ biến mệnh lệnh bới ba sĩ quan an ninh nhà nước StB mặc thường phục về nghiệp vụ can thiệp trước Nhà hát quốc gia – tức là lúc dòng người tuần hành chỉ mới hình thành ở một vị trí cách đó 3 km. Trung đội can thiệp được giải thích qua hình vẽ phóng to việc khóa chặn Đại lộ ở vị trí sát Nhà Hát Quốc Gia, cũng như việc sử dụng ô-tô có khung chắn. Họ nhận được lệnh bắt giữ một số cá nhân trong dòng người tuần hành được các sĩ quan chỉ điểm.
Bộ phận huy động nhanh được huấn luyện cho các nghiệp vụ chớp nhoáng chứ không phải cho việc giữ gìn trật tự an ninh. Trung úy Becvar, người đã ban lệnh huy động, phải biết đơn vị này sẽ có phản ứng gì. Ông ta phải biết việc sử dụng tới bộ phận này là không thích hợp, vì theo luật định và nội qui của Bộ Nội Vụ thì bộ phận này chỉ được huy động tới khi có tình trạng nguy hiểm trực tiếp tới an toàn tính mạng, khi có hoạt động đối kháng có tổ chức và có trang bị vũ khí. Không có bất kỳ nguy hiểm như thế có thể dự đoán là có khả năng xảy ra tại Đại lộ quốc gia. Trung úy Becvar được chính Hegenbart xếp đặt vào chức vụ và có khả năng rất cao là ông ta không tự mình ra một mệnh lệnh trái qui định như thế. Ở đây có thể ẩn chứa các nguyên nhân, tại sao ông ta sau đó lại dùng súng tự kết liễu đời mình.
e) Trong buổi chiều ngày 17.11.1989, toàn bộ giới lãnh đạo Hiến Chương 77 cùng với gia đình của họ đã rời khỏi Praha. Chỉ có hai ông Uhl, Benda và bà Nemcova ở lại thành phố. Rõ ràng là có nguy cơ họ sẽ bị bắt giữ trong trường hợp ông Hegenbart không thành công trong việc làm tê liệt mọi phản ứng và quyết định của số đông lãnh đạo Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản và Bộ Nội Vụ Liên Bang không có chân trong phi vụ. Tất cả các thành viên của Hiến Chương tuy thế đều về đến Praha trước trưa ngày thứ bảy 18.11.1989. Trong ngày này và ngày chủ nhật, Hegenbart thành công hoàn toàn trong việc đẩy lùi nguy cơ có can thiệp nguy hiểm từ phía lực lượng Dân vệ mà ông Jakes đã huy động.
Mục tiêu của chiến dịch không chỉ là dẹp bỏ tổng bí thư Jakes mà còn bao gồm rút phe CS lui vào các vị trí đã chuẩn bị sẵn sàng, việc rút lui và ngụy trang đã được thỏa thuận với nhóm Hồi sinh (nhóm nòng cốt trong Hiến Chương 77 – chú thích của người biên dịch) từ tháng 1.1989. Từ thời điểm đó cho tới lúc ông Vaclav Havel bị bắt giữ, giới diễn viên, ca sĩ … đã được Hegenbart huy động lấy chữ ký yêu cầu thả. Mọi cá nhân tích cực khởi xướng đều là người của Cộng Sản.
Dựa theo biên bản ghi chép các sinh viên đã tham gia chuẩn bị tuần hành và sau đó đứng ra tổ chức lực lượng thì có thể thấy họ toàn là con cái của những gia đình có tiếng tăm. 86 % những sinh viên này có bố mẹ là hoặc là quan chức cao cấp của Đảng Cộng Sản, Bộ Nội Vụ, các cơ quan ngoại giao, hoặc giữ các chức vụ tổng giám đốc công ty, giáo sư đại học … Tồn tại nhiều bằng chứng cho thấy các sinh viên này được bố mẹ chỉ thị, hướng dẫn. Cũng tồn tại các bằng chứng cho thấy từ tháng 5.1989, các khẩu hiệu như “Chúng tôi không như họ”, “Chúng tôi không muốn có bạo lực”, v.v…v... đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, các khẩu hiệu này được dùng tới là để giúp phe Cộng Sản tránh được nguy cơ trở thành mục tiêu của vũ lực từ phía quần chúng (một trong các điều kiện của thỏa thuận về trao nhận quyền lực), còn việc đảm bảo chấp hành theo khẩu hiệu thì được đưa ra thông qua lực lượng lãnh đạo giới sinh viên.” (Hết trích dẫn)
Bản Phân tích cũng cho biết: "Khi những nghi ngờ này của dân chúng được biết đến, đài BBC đã cho quay một phóng sự về sự kiện 17.11.1989, với diễn biến được chỉnh lý và dẫn hướng tới kết luận cuối cùng rằng đó là một cuộc đảo chính không thành công trong nội bộ Đảng CS, nhắm vào việc hạ bệ nguyên tổng bí thư Jakes, nhưng vào thời điểm cuối đã tuột khỏi tầm kiểm soát", đồng thời cảnh giác công luận trước kết luận không chính xác, có tính chữa cháy của phóng sự này của BBC.
Như vậy, theo ông Miroslav Dolejsi, người trước hết có liên quan trực tiếp tới hoạt động của An ninh nhà nước StB trong thời gian trước và trong cuộc đảo chính khởi đầu vào ngày 17.11.1989 là Rudolf Hegenbart, thành viên Ban chấp hành, chủ tịch bộ phận phụ trách hành chính nhà nước thuộc Ban chấp hành TW Đảng CS Séc-Slovakia. Bản thân ông Hegenbart tuy nhiên sau này bác bỏ là có tham gia vào công việc đảo chính.
Theo chứng thực của ông Jiri Wolf, một thành viên tiếng tăm của Hiến chương 77, tù nhân chính trị của chế độ CS đăng trên freeglobe.parlamentnilisty.cz ngày 24.1.2012 thì sáng ngày 17.11.1989, ông ta bị bắt và giữ tại một trụ sở của Đội An Ninh Quốc Gia SNB ở Praha, với lý do là để ông này:“không gây quấy phá cuộc tuần hành ôn hòa do Đoàn thanh niên tổ chức được An Ninh Quốc Gia StB bảo trợ!”. Trong thời gian bị giữ lại ở đây, hai nhân viên cảnh sát canh giữ đã tiết lộ cho ông ta biết điều gì sẽ xảy ra trên Đại lộ quốc gia. Sau khi được thả ra, ông Wolf chạy đến Đại lộ quốc gia, được tin về hoạt động khiêu khích của An Ninh Quốc Gia StB và “lập tức hiểu ngay là mọi việc xung quanh ngày 17.11 đã được lên kế hoạch từ trước.” Theo ông Wolf, không riêng cuộc tuần hành ngày 17.11.1989 mà “cũng tương tự như tất cả các hoạt động khác trong mùa thu đó tại Kampa hay cổng John Lennon ở Praha. Đều do Đoàn Thanh Niên XHCN tổ chức.” Ông còn cho biết:
“Việc tôi bị cầm giữ tại Pankrac, sau Cổng Vysehradska sau này được chính ông Alexander Dubcek chứng thực. Ông Dubcek bị bắt tại ga metro Gottvaldov, ngày nay là ga Vysehrad, cùng ngày. Khi ông ta xuống tàu metro, an ninh nhà nước StB đã chờ sẵn ở đó. Việc bắt giữ ông Dubcek xảy ra do có khai báo của một thành viên Hiến Chương 77 với mật hiệu "thủ thư". An Ninh Nhà Nước StB không muốn để ông Dubcek sẽ trở thành người anh hùng của cách mạng, không muốn cho ông ta là người anh dũng, không hề run sợ đứng lên phát biểu trước sinh viên, kêu gọi giới trẻ lật đổ chế độ toàn trị. StB đã có những anh hùng khác, được chuẩn bị trước.”
Theo một tin chứng khác thì ngoài ông Rudolf Hegenbart, chủ tịch bộ phận phụ trách hành chính nhà nước thuộc Ban chấp hành TW Đảng CS Séc-Slovakia đã nói tới ở trên thì một trong những người có biết về kế hoạch chuẩn bị đảo chính là ông Jozef Lenart, nguyên thành viên hội đồng tịch Ban chấp hành TW Đảng CS Séc-Slovakia. Trong chuyến đi thăm tỉnh Liptovky Mikulas (Slovakia) các ngày 3. và 4.9.1989, ông Lehart đã tiết lộ trước một nhóm cán bộ cao cấp rằng tình hình là tồi tệ, rằng họ - tức là giới lãnh đạo cũ – chắc không trụ giữ được tới cuối năm. Nhưng mọi việc đã được thu xếp bằng cách giao tất cả cho An Ninh Quốc Gia, để tránh không ai bị việc gì. Ông Lenart nói vậy với vẻ tự hào và chắc chắn. (Theo báo Phương Hướng – Smer – ngày 8. 12. 1990).
Nhưng ở đây còn có nhiều chứng thực khác về việc tham gia đảo chính của một trung tâm quyền lực quan trọng hơn cả Đảng CS Séc-Slovakia, đó là Đảng CS Liên Xô. Theo lời khai của ông Miroslav Stepan, một thành viên của hội đồng chủ tịch Ban chấp hành TW Đảng CS Séc-Slovakia thì trong một buổi tiếp khách tại Đại sứ quán Séc-Slovakia tại Mát-xơ-cơ-va ngày 28.10.1989, ông Gerasimov, cố vấn của Goóc-ba-chốp, lúc đó đã ngà ngà say, đã nói rằng vào giữa tháng 11.1989 đường phố Praha sẽ đặc người vì các vấn đề trong nội bộ Đảng CS Séc-Slovakia (theo báo Nhân dân – Lidové noviny – ngày 6.11.2004).
Đáng chú ý là tiết lộ với nội dung như vậy của ông Gerasimov cũng được ông Valtr Komarek, đảng viên Đảng CS Séc-Slovakia, giám đốc Viện dự đoán thuộc Viện hàn lâm khoa học Tréc-Slovakia, một trong những lãnh đạo trụ cột của Diễn Đàn Công Dân (tổ chức tập trung lực lượng dân chủ ở Séc ra đời sau ngày 17.11.1989, tổ chức tương tự ở Slovakia có tên là Công Chúng Chống Bạo Lực), phó thủ tướng thứ nhất trong chính phủ thông hiểu dân tộc sau ngày 10.12.1989, nói đến. Trong bài phỏng vấn đăng trên báo Mặt Trận Trẻ Hôm Nay – Mlada fronta dnes – ngày 6. 11. 2004, ông Valtr Komarek cho biết:
“Vào cuối tháng mười (1989) tôi được Ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Liên Xô tiếp tại Mát-xơ-cơ-va, tại đó chúng tôi đã thảo luận về việc chuyển đổi giao nhận quyền lực ở Liên Bang Séc-Slovakia. Người ta đã lưu ý tôi rằng có khả năng sẽ có tuyên bố thiết quân luật hay can thiệp bằng lực lượng quân đội, nhưng họ sẽ nỗ lực mọi cách để mọi việc diễn ra một cách êm ả. Chúng tôi biết là nếu có chuyện gì xảy ra thì sẽ được lùi lại vào đầu tháng 12.1989. Tuy nhiên, ngày có lễ kỷ niệm 17.11 (tức là Ngày Sinh Viên Quốc Tế - chú thích của người dịch) là một thời điểm thần kỳ, rõ ràng là có khả năng khơi mào cao cho các cuộc biểu tình đông đảo hơn thường lệ. Tuy chúng tôi, với tư cách là các chuyên viên dự đoán, không biết trước được chính xác từng giờ, nhưng biết rằng thỏa thuận giữa Bush với Goóc-ba-chốp đã được thông qua và vấn đề phải được giải quyết nốt tại Séc-Slovakia.”
Tiện nhắc tới đây, ông Komarek cũng là người có nhận định rằng sự kiện tháng 11 năm 1989 là kết quả trước hết của các tác động từ bên ngoài (Liên Xô, Mỹ và Tây Âu), các nỗ lực trong nước chỉ có một phần đóng góp phụ. Theo ông thì ngay cả trong năm 1989, ở Liên Bang Séc-Slovakia vẫn chưa có dấu hiệu gì cho thấy sẽ có triển biến rõ rệt, số người biết đến những diễn biến then chốt ở Liên Xô và một số quốc gia Cộng Sản ở Đông Âu là ít ỏi, đó vẫn là "một xã hội xem như là trật tự, ngoài số tám trăm cá nhân thuộc phía chống đối, trong số đó một nửa là điệp viên của An Ninh Nhà Nước StB” như theo lời của ông ta trong một bài phỏng vấn đăng trên blesk.cz ngày 25.12.2012. Đồng thời ông Komarek cũng là một trong những nhân vật “huyền thoại của cuộc cách mạng" có thất vọng lớn với diễn biến chính trị-xã hội và kinh tế tại Séc-Slovakia sau sự kiện tháng 11 năm 1989, theo như ông đánh giá, đó là những diễn biến “xấu nghiêm trọng”.
Thú vị hơn nữa là trong số tài liệu mật của An Ninh Nhà Nước được chính ông Ludvik Zifcak, hay“người sinh viên bị đánh chết” đã nói tới ở trên công bố có bản Báo Cáo Mật của Cục Quản Lý I thuộc Đội An Ninh Quốc Gia SNB ngày 15.11.1989 cho ông Milos Jakes, trong đó có đoạn “thông tín viên tạp chí Stern (một tạp chí của Tây Đức – chú thích của người biên dịch) tại Mát-xơ-cơ-va nhận được từ ông Gerasimov, người phát ngôn bộ ngoại giao Liên Xô, thông tin rằng trong tuần này ‘sẽ xảy ra một điều gì đó khiến người dân Praha xuống đường’”. Bản báo cáo này cũng nói tới nhận định của các nhà báo Tây Đức cho rằng: "trong cuộc gặp gỡ với tổng bí thư ban chấp hành TW Đảng Cộng Sản Liên Xô vào tháng 12 tới, tổng thống Bush có dự định sẽ thảo luận cả về tình hình tại Đông Đức và Liên bang Séc-Slovakia. Họ cũng nhận xét rằng không thể loại trừ khả năng là ông Bush muốn cùng ông Goóc-ba-chốp giải quyết xong vấn đề Séc-Slovakia trước khi sang thăm chính thức nước Ý. Thông tín viên tạp chí Stern sau đó nói về bài viết được chuẩn bị đăng trên báo Bild am Sonntag (được đăng vào ngày 5.11), trong đó sẽ có tin rằng theo các nguồn tin từ Mát-xơ-cơ-va thì vào tháng 11 năm nay tổng bí thư Ban chấp hành TW Đảng CS Séc-Slovakia sẽ từ chức và ông Stepan, hiện là bí thư trưởng Ủy ban Đảng Cộng Sản thành phố Praha, sẽ lên thay.”

Vaclav Havel (đứng giữa), là một nhà viết kịch bất đồng chính kiến, sau này trở thành Tổng Thống
Ông Petr Pithart, thành viên nòng cốt của phong trào Hiến Chương 77, một trong những lãnh đạo nòng cốt của Diễn Đàn Công Dân, cộng tác gần gũi của tổng thống Vaclav Havel trong những năm then chốt 1989-1990 cũng đã có nhận định: "đó thực không phải là một cuộc cách mạng mà là một cuộc chuyển giao quyền lực theo thỏa thuận", và bổ xung thêm: “Tôi thì tôi nghĩ rằng đó không phải là một cuộc cách mạng. Tôi kiên chắc với điều này và cho rằng đây là một điều quan trọng, không phải là xoi mói, bới lông tìm vết. Tôi thì không quan tâm tới các định nghĩa. Tôi có quan điểm chắc chắn rằng cách mạng là một công cuộc hàm chứa nhiều nguy hiểm, với kết quả không chắc chắn, có tính tới khả năng là sẽ có hy sinh. Sự kiện tháng 11 năm 1989 cơ bản không bao gồm bất kỳ một trường hợp nào trong số đó.” Ông Pithart cũng có nhận xét là mặc dù có những diễn biến lớn ở các nước lân cận Ba Lan, Hung-ga-ri và Đông Đức, tình hình xã hội và tâm trạng của công chúng trong Liên Bang Séc-Slovakia trong thời kỳ đó chưa có dấu hiệu gì cho một cuộc cách mạng. Theo lời của ông ta thì chỉ có những người ở nước ngoài mới biết tới các diễn biến dân chủ ở Trung và Đông Âu, ở Séc-Slovakia thì số lượng người có thông tin đầy đủ là ít ỏi, ngay cả giới đối kháng vẫn nghĩ là "ở ta thì phải vài năm nữa, trời mới biết là khi nào" và chưa có chuẩn bị gì nhiều. Thực sự thì tất cả các phía: dân chúng, lực lượng hoạt động dân ... chủ đều ngạc nhiên, sửng sốt trước các diễn biến đột ngột sau đó. (Bài phỏng vấn đăng trên dennik.cz ngày 19.10.2009).
Một tài liệu cũng hay được tham khảo tới là bài viết có tiêu đề “Những người anh hùng và những tên Giuđa năm 1989 hay mọi thứ đều là không phải như vậy. Sự thật về sự kiện 17.11.1989”. của ông Jiri Abraham đăng trên trang điện tử listopad.wordpress.cz (một trang chuyên đăng các bài viết quanh sự kiện tháng 11 năm 1989) ngày 29.5.2010. Theo nhận định của bài viết này thì sự kiện 17.11.1989 là một chiến dịch có mưu toan thông đồng, được vạch định kỹ càng và chi tiết từ trước, được thực hiện với vai diễn chính do An Ninh Nhà Nước StB, dưới sự chỉ đạo của tướng an ninh Alojz Lorenc, thời đó là thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội Vụ, đảm nhiệm. Mục tiêu cuối cùng là đưa các quan chức cộng sản kiểu Goóc-ba-chốp lên nắm quyền. Ông Abraham còn đi xa hơn nữa với nhận đình rằng trong hướng giải quyết tình thế này không phải chỉ có một mình Liên Bang Séc-Slovakia. Đó chỉ là một trong những tảng đá nặng treo trên cổ Mát-xơ-cơ-va. Trong thời Reagan, “Vương quốc của cái ác” trượt dốc và “con gấu Nga” đã mệt mỏi, đứng trước nguy cơ tan vỡ. Chiến thuật không khoan nhượng của phương Tây, đứng đầu bởi Mỹ, buộc Goóc-ba-chốp công nhận không thể giữ được quyền cai trị với các nước chư hầu. Bên cạnh đó, bản thân Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia cũng đã bị phân hóa từ lâu. Các phe cánh tìm cách chơi nhau. Trong giới lãnh đạo, phe bảo thủ của đương kim tổng bí thư Milos Jakes không còn được tính đến không chỉ vì những bộ óc đần độn, mà còn vì họ đã trở thành cản trở cho các thay đổi, ít nhất là cho các thay đổi có vẻ dáng cải cách, có vẻ hướng tới dân chủ để phù hợp với tình hình mới. Nhưng phe này đâu có dễ dàng chịu rời bỏ cái chỗ ngồi ấm áp của mình, vì thế, cuộc chiến kéo dài bên trong nội bộ đảng. Thậm chí từ Mát-xơ-cơ-va, người ta phải cho gửi tới những lời huấn thị.
Để phục vụ cho mục đích thay đổi lãnh đạo trên, An Ninh Nhà Nước StB phải tìm cách đánh thức dân chúng khỏi trạng thái thờ ơ, lãnh cảm và thụ động, huy động họ xuống đường để gây sức ép chính trị cần thiết. Các cuộc biểu tình, trong đó có cả cuộc biểu tình ngày 17.11.1989, vì thế đã được StB, với sự cộng tác của các tổ chức thanh niên, sinh viên, góp sức tổ chức nhằm vào mục đích này. Sau can thiệp vũ lực tàn bạo của lực lượng an ninh nhà nước trước Nhà Hát Quốc Gia trên Đại Lộ Quốc Gia ngày 17.11.1989, dân chúng quả thực đã thức tỉnh khỏi giấc ngủ lờ đờ. Nhưng họ lại thức tỉnh và phản ứng quá mức, họ muốn làm cách mạng, muốn có thay đổi chế độ và đó là điều mới lạ, nguy hiểm cho giới cộng sản kiểu mới. Vì thế người của tướng Lorenc phải thay đổi chiến thuật, chuyển sang tìm cách giải quyết chính trị. Người của tướng Lorenc về cơ bản dự đoán được điều gì sẽ xảy ra, và họ đã chuẩn bị sẵn một số phương án. Phương án được chọn lựa là đối thoại với lực lượng đối lập đang nhanh chóng thành hình quanh Diễn đàn công dân đề xướng.
Theo ông Abraham thì việc đàn áp, bắt bớ và đập tan Diễn Đàn Công Dân là điều rất dễ dàng, nhưng có điều đối lập cũng lại là nằm trong kế hoạch dự tính. Người ta cần đến lực lượng này, đã quá hiểu rõ về lực lượng này. Một số phần tử trong lực lượng này là những “người quen”, đó là những người của họ. Do vậy, phương án đối thoại được xem như là tối ưu nhất. Cũng theo ông Abraham, do nhờ vào tên tuổi, tiếng tăm ở phương Tây, Vaclav Havel được tính tới cho chức vụ lãnh đạo cao nhất. Ông ta là lựa chọn số một đối với phương Tây, nhưng cũng phù hợp cho “người của tướng Lorenc”.
Nói tới nhận định sự kiện tháng 11 năm 1989 thực chất là một âm mưu, kế hoạch được An Ninh Nhà Nước StB chuẩn bị từ trước không thể không nhắc tới cuốn sách có tựa đề tiếng Séc là Polojasno (tạm dịch là Nửa quang nửa mù) của ông Vaclav Batuska, sau đã được dựng thành một bộ phim cùng tiêu đề. Trong thời kỳ lịch sử năm 1989, ông Bartuska là sinh viên ngành báo chí trường Đại học Karlova, đại diện giới sinh viên tham gia Hội Đồng Quốc Hội Liên Bang phụ trách giám sát công tác điều tra sự việc ngày 17.11.1989. Trong thời gian hoạt động trong hội đồng này, ông Bartuska đã có nhiều nghi ngờ khi phát hiện ra những mối quan hệ gần gũi giữa An Ninh Nhà Nước StB và các nhân vật lãnh đạo cao cấp trong Đảng Cộng Sản, cũng như giữa giới lãnh đạo mới (sau cách mạng) với giới lãnh đạo Cộng Sản trước đó, những nghi ngờ này của ông đã được khẳng định sau khi ông được một “người đàn ông phía kia” giải thích tường tận về mưu đồ, kế hoạch của StB. Theo quan điểm của ông Bartuska trong cuốn sách này thì cuộc cách mạng tháng 11 năm 1989 là một công việc được chuẩn bị từ trước bởi tướng Alojz Lorenc, thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội Vụ Liên Bang, cùng với ông Hegenbart và một số quan chức khác trong Đảng Cộng Sản, nhóm này cũng đã có thỏa thuận cộng tác từ trước với một số nhân vật trong phe đối lập. Ghi chép cuối cùng của ông trong thời gian làm việc tại Hội Đồng nói trên là: “Tôi đã thấy rõ đại diện của cơ cấu quyền lực mới dùng thẩm quyền của mình che giấu cho các hành động của các cá nhân thuộc cơ cấu quyền lực cũ. Sự thống nhất về quan điểm giữa hai tổ chức quyền lực - một bên vừa chiến thắng, một bên đã thua - khiến tôi phải đặt câu hỏi có bao nhiêu đại diện của cơ cấu quyền lực mới thực sự quan tâm tới việc tìm ra sự thật ngày 17.11.1989. Và cũng có thể lương tâm của họ không được trong sạch hoàn toàn. Bộ mặt thì được thay mới, nhưng nột dung bên trong vẫn giữ nguyên.” Tuy thế, cần phải bổ xung ở đây là ông Vaclav Bartuska sau này đã tuyên bố từ bỏ giả thuyết về âm mưu thông đồng của An Ninh Nhà Nước StB của mình được nói tới trong cuốn sách này. Hiện nay, ông Bartuska là đại sứ năng lượng của Bộ Ngoại Giao nước Cộng Hoà Séc.
Cũng cần phải nói đôi điều về Hội Đồng Quốc Hội Liên Bang giám sát công việc điều tra các sự kiện ngày 17.11.1989. Có hai hội đồng như vậy: Hội đồng thứ nhất được thành lập ngay sau tháng 11 năm 1989, ngoài đại diện của giới sinh viên còn có các đại diện của Đảng CS và tới ba điệp viên của An Ninh Nhà Nước StB (Diễn Đàn Công Dân không có đại diện nào), vì vậy công tác điều tra của hội đồng này được coi là không đáng tin cậy. Hội đồng này kết thúc hoạt động vào tháng 5 năm 1990, sau khi nộp báo cáo tổng kết lên Quốc Hội Liên Bang. Báo cáo này được tuyên bố là tài liệu bí mật, không được công bố công khai. Hội đồng thứ hai được thành lập vào tháng 10 năm 1990, với thẩm quyền lấy lời khai của các cá nhân và được sử dụng tài liệu lưu trữ của An Ninh Nhà Nước StB. Kết quả điều tra của Hội đồng này cũng được coi là tài liệu bí mật, chỉ mới được công bố từng phần trong những năm gần đây.
Trước ngày kỷ niệm 23 năm sự kiện tháng 11 năm 1989, một cuốn sách với tựa đề "Cái chết Nhung" đã ra mắt công chúng và ngay lập tức đã gây được nhiều chú ý. Tác giả của cuốn sách không phải là ai khác ngoài ông Petr Hajek, một nhà báo tên tuổi, đồng sáng lập, nguyên giám đốc biên tập tuần báo tiếng tăm Reflex, nguyên phó chủ tịch Văn phòng tổng thống CH Séc. Trong cuốn sách này, ngoài các quan điểm vượt quá khuôn khổ của bài viết này, ông Hajek đưa ra nhận định rằng sự tan rã của Chủ Nghĩa Cộng Sản ở châu Âu, cũng như cái gọi là cuộc Cách Mạng Nhung tại Liên Bang Séc-Slovakia không phải là thành quả của làn sóng nổi dậy tự phát trong các tầng lớp nhân dân, xuất phát từ bất bình với chế độ Cộng Sản, mà là kết quả của hoạt động của các cơ quan tình báo, cũng như các tổ chức, thế lực trong hai phe khối Đông và Tây, cộng sản và tư bản, mà công chúng ít hoặc hoàn toàn không biết tới, các hoạt động với định hướng tới một "hội tụ" giữa hai trung tâm quyền lực. Ông Hajek gọi đó là "cuộc hội tụ Nhung" của hai hệ thống, một bước đi trên con đường dẫn tới điểm đích: trật tự thế giới mới. Đồng thời, ông này cũng có nhận xét là các đảng Cộng Sản tại các nước thuộc phe Xô-viết cũ đã chớp nhoáng lấy tên gọi mới, thay hình đổi dạng, cải biến chương trình hoạt động, đưa các mục tiêu xã hội, dân chủ lên hàng đầu để tiếp tục tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế và xã hội, giữ chỗ đứng và thế lực nhất định trong công tác lãnh đạo quốc gia tại các nước này.
Qua những điều nêu trên, ta có thể thấy có các quan điểm tương đối khác nhau trong nhìn nhận chung sự kiện tháng 11 năm 1989 tại Liên bang Séc-Slovakia không phải là một cuộc cách mạng tự phát của quần chúng chống lại chế độ Cộng Sản. Trong số đó có quan điểm cho rằng đó là một cuộc đảo chính trong nội bộ Đảng Cộng Sản được chuẩn bị từ trước (thành công hoặc không thành công); có quan điểm cho rằng về bản chất đó là một sự chuyển giao quyền lực cũng được chuẩn bị kỹ càng từ trước, với sự đồng thuận tham gia của các lực lượng chính trị trong nước, có tính toán, theo đuổi những mục đích nhất định (sẽ nói tới tiếp ở phần sau); cũng như có quan điểm cho rằng đó là một chuyển giao quyền lực như là kết quả hoạt động của các thế lực lớn hơn, có quy mô, tác động toàn cầu.
Trần Hoàng
(Còn tiếp)


Cuộc Cách Mạng Nhung tại Séc-Slovakia tháng 

11 năm 1989: Một cách nhìn khác (Phần II)


Chủ Nghĩa Cộng Sản hiện nay chỉ còn tồn tại ở một số rất ít quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Triều Tiên, ..., tuy nhiên sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ và tan rã, đó là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được của thời đại. Vì công việc chuyển giao quyền lực là một quá trình vô cùng khó khăn và phức tạp, lại có tác động quá rộng khắp, quá sâu sắc tới mọi phương diện của đời sống xã hội không chỉ trong hiện tại, mà còn trong tương lai nên việc nghiên cứu các kinh nghiệm cũng như các đánh giá quá trình chuyển giao quyền lực ở các nước Cộng Sản cũ tại Đông Âu từ mọi phương diện, mọi cách tiếp cận và nhìn nhận là hết sức cần thiết, không bao giờ là có hại mà ngược lại, có thể đem lại cho chúng ta nhiều bài học bổ ích, có thể lưu ý chúng ta về những khía cạnh tế nhị, tinh vi dễ bị bỏ qua. Đó cũng là mục đích của bài biên dịch này.
Chia sẻ bài viết này

2. Phe cộng sản đã khôn khéo lợi dụng sự non nớt, thiếu kinh nghiệm thực tế, cũng như những sai lầm và yếu điểm của lực lượng dân chủ trong thời kỳ đàm phán, thu được nhiều lợi ích cho họ

Một trong những tài liệu về viết về diễn biến chính trị tại Séc-Slovakia trong thời gian kế sau sự kiện 17.11.1989 chi tiết nhất, thường được nhắc tới nhất, là cuốn sách Mê Lộ Cách Mạng (tiếng Séc: Labyrintem revoluce) của ông Jiri Suk, một nhà sử học và chính trị học, hiện đang công tác tại Viện Sử Học Đương Đại thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Séc, xuất bản năm 2003. Dưới ngòi bút của một nhà sử học, các sự việc được viết ra trong cuốn sách này đúng như chúng được tác giả quan sát và biết đến, tổng hợp lại sau nhiều năm nghiên cứu; các nhận định, suy luận, cũng như các suy diễn, nếu có, là tỉnh táo, hoàn toàn không có tính quá thái, gò ép. Vì thế tài liệu này có thể cho người đọc một bức tranh có thể nói là khá chính xác và khách quan về tình hình chính trị tại quốc gia này sau cuộc cách mạng Nhung 1989. Dưới đây sẽ là nội dung tóm tắt của cuốn sách.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia, vốn được qui định trong hiến pháp năm 1960 của Liên bang hai nước này, đặt toàn bộ Quốc Gia Séc-Slovakia dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản. Hệ thống hiến pháp dân chủ (từ năm 1968 thêm đặc tính liên bang) thực chất chỉ là cái vỏ che đậy cho cơ cấu lãnh đạo với một trung tâm quyền lực duy nhất.
Sau sự kiện 17.11.1989, ở nước này có quan điểm phổ biến nhưng khá mơ hồ là chức vụ tổng thống sẽ giữ một ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi (tức là trước khi có tổng tuyển cử tự do).
Trong khi ông Ladislav Adamec, thủ tướng Cộng Sản đương nhiệm, đang đàm phán với phong trào dân chủ, tập hợp quanh các tổ chức Diễn Đàn Công Dân (Občanské Fórum) ở Séc và Công Chúng Chống Bạo Lực VPN ở Slovakia về việc thành lập chính phủ mới (từ ngày 28.11 tới 6.12), Đảng Cộng Sản Séc - Slovakia dường như bị đẩy ra ngoài rìa và hoàn toàn bị tước mất khả năng can thiệp vào công việc chính trị trong nước. Ông Adamec trước đó đã tạm thời từ giã đảng mình, nỗ lực hoạt động cá nhân nhưng không thành công, vì thế ông ta thấy không còn lựa chọn nào khác là quay lại với đảng phái chính trị trước đó của mình, tìm cách khôi phục địa vị lãnh đạo trong đảng rồi dùng nó làm phương tiện thực hiện kế hoạch mới.
Đúng trong lúc tình thế là vô cùng bất lợi cho phe Cộng Sản thì Diễn Đàn Công Dân chính thức công nhận Đảng Cộng Sản là lực lượng đàm phán chính, ngẫu nhiên trả lại cho Đảng Cộng Sản một phần vai trò chính trị. Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia đứng trước thềm một chính trường mới, tinh vi hơn. Họ đã tận dụng cơ hội trời cho, khi phong trào dân chủ không có kế hoạch chiếm đa số trong chính phủ mới, tìm cách lấy lòng phong trào dân chủ. Sự sẵn lòng nhượng bộ rộng khắp, tuy nhiên, chỉ là cái vỏ bên ngoài. Diễn Đàn Công Dân, lẽ ra phải có định hướng thực tế trong tình hình hiện thời, lại hoàn toàn bị ngạc nhiên, có thể nói bị sốc trước thái độ của Đảng Cộng Sản. Như thể cộng sản đã thực sự lùi bước trước sức ép của dân chủ! Đảng Cộng Sản thì giải thích thái độ nhượng bộ của mình như hành vi chuộc tội. Từ lúc đại diện của Đảng Cộng Sản ngồi vào bàn đàm phán tại Cung Văn Hóa Praha, họ làm ra vẻ đã từ bỏ hoàn toàn độc đoán quyền lực, đã từ bỏ hoàn toàn các phương thức chính trị chuyên quyền, toàn trị.
Sau khi giải quyết xong vấn đề dàn xếp nhân sự cho chính phủ liên bang lâm thời, được gọi là“chính phủ thông hiểu dân tộc” với kết quả không phải là hoàn toàn thua thiệt cho phe Cộng Sản nếu xét tới thái độ chung của dân chúng dành cho họ trong thời gian này (thủ tướng chính phủ là ông Marian Calfa, người của Đảng Cộng Sản), phe Cộng Sản bắt đầu tập trung chú ý vào chức vụ tổng thống.

Dr. Gustáv Husák
Để thuyết phục được ông Gustáv Husák, tổng thống Cộng Sản đương nhiệm, để ông ta tự động từ chức, không có gì là quá khó. Tuy thế, phe Cộng Sản đã gắn vào việc này một dàn xếp chiến lược và đã thực hiện tốt chiến lược này: ngày 8.12.1989, tại “bàn tròn”, đại diện Đảng Cộng Sản chấp thuận điều kiện của Diễn Đàn Công Dân (bao gồm cả đại diện của Công Luận Chống Bạo Lực VPN), để dành chức vụ tổng thống do một người dân tộc Séc (không đảng phái) đảm nhiệm, vì chức vụ thủ tướng đã được dành cho một người có dân tộc Slovaka (ông Calfa, đảng viên Đảng Cộng Sản), mặc dù phe Cộng Sản đã tìm ra một phương cách giải quyết khác, được chấp thuận kia ngụy trang giúp. Đó là một cách giải quyết rất đơn giản, nhưng rất hợp thời và rất hiệu quả - bầu cử tổng thống trực tiếp! Phe Cộng Sản đã khéo léo sử dụng thực tế là có nhiều ứng cử viên ra tranh cử tổng thống: Václav Havel, Alexander Dubček, Cestmir Cisar và Ladislav Adamec (hai người cuối là đại diện của Cộng Sản) để biện hộ cho cách giải quyết này. Theo họ, để tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, tốt nhất là nên để các ứng cử viên có cơ hội bình đẳng trong việc tìm kiếm ủng hộ của cử tri. Những lời thổ lộ có tính tự phê bình của các nhân vật lãnh đạo Cộng Sản cao nhất, thú nhận công rằng quốc hội đương nhiệm, với các thành viên là người của phe Cộng Sản, không có tư cách xứng đáng để bầu lên tổng thống, gây bất ngờ nhiều người và không ngờ đem lại hiệu quả cao. Mục đích chính của chiến thuật này là gây khó dễ cho ông Havel, mở đường cho Adamec, người theo phe Cộng Sản có khả năng thắng lợi khá lớn (trong con mắt của Cộng Sản, hai ứng cử viên còn lại còn dễ chấp nhận hơn ông Havel). Phe Cộng Sản cho rằng bầu cử trực tiếp có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng văn hóa chính trị mới. Tính toán chính trị của họ là rõ ràng: họ muốn công luận thấy đợt bầu cử tổng thống là thử nghiệm đầu tiên của dân chủ; nguyên thủ quốc gia phải được người dân trực tiếp bầu ra, tiến trình dân chủ đang lan tỏa tới mọi ngóc nghách đất nước. và người khởi xướng ra hướng đi duy nhất của dân chủ là Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia đã hoàn toàn cải cách và thức tỉnh.
Mặc dù phe Cộng Sản lúc đó vẫn đang chiếm đại đa số quốc hội, họ không thể thông qua bất cứ luật định nào mà không có trao đổi với phong trào dân chủ. Vì thể, ngày 11.12, họ đề nghị khởi xướng đàm phán về bầu cử tổng thống. Diễn Đàn Công Dân lúc đó, vì những lí do không rõ, lại đột ngột thay đổi chiến lược đối thoại song phương trước đó của mình, tuyên bố chỉ đàm phán nếu các đảng phái chính trị khác ở trong nước tham gia “bàn tròn”. Khi các đảng phái chính trị lớn nhất trong thời gian đó như Đảng Nhân Dân Séc-Slovakia, Đảng Xã Hội Séc-Slovakia … ngồi vào bàn đàm phán thì đại diện của Diễn Dàn Công Dân có lúng túng lớn, họ không thể đồng ý với ý kiến bầu cử tổng thống trực tiếp của phe Cộng Sản, cũng không thể buộc các phía tham gia đồng ý đưa ứng cử viên của họ, ông Vaclav Havel, lên giữ chức tổng thống mà không cần qua bầu cử, nhất là khi các đảng phái khác đều có ứng cử viên của mình, lại cũng không thể đề nghị Quốc hội liên bang với thành phần nhân sự cũ (Cộng Sản) bầu ông Havel, nhất là khi chính phe Cộng Sản trước đó đã đưa ra lưu ý về tính không phù hợp của một đợt bầu cử tổng thống bằng hình thức này. Ngoài ra, ông Alexander Dubček, nguyên tổng bí thư Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia trong thời gian sự kiện Mùa Xuân Praha lừng danh thế giới cũng có ý định tranh cử vào chức vụ tổng thống, ngoài các nguyên nhân khác có nguyên nhân ông muốn nhận được đền bù chính trị thỏa đáng.
Nguyên nhân chính tại sao phe dân chủ bác bỏ bầu cử trực tiếp là do có lo ngại ông Havel sẽ không thành công trong cuộc cạnh tranh cho chức vụ tổng thống. Ông Havel được biết đến như một nhân vật đối kháng chống Cộng Sản có tiếng ở nước ngoài nhiều hơn là ở trong nước. Phần lớn quần chúng nhân dân chỉ biết tới ông ta sau sự kiện tháng 11 năm 1989. Các ứng cử viên khác như ông Adamec (người có thể được nhiều phiếu bầu của cử tri các vùng nông thôn có tuyên truyền mạnh của phe Cộng Sản), và đặc biệt là ông Dubček, đều có thể là những ứng cử viên nặng giá. Tên tuổi ông Dubček đã ăn sâu vào tâm trí nhân dân như "người anh hùng của Mùa Xuân Praha", như một lãnh đạo cộng sản thực sự muốn thực hiện các cải cách dân chủ hóa trong xã hội. Tên tuổi ông Dubček cũng lừng danh ở nước ngoài. Trong mọi tiêu trí đánh giá, ông Dubček hơn hẳn Havel. Ngay cả trong quốc hội người ta cũng dự đoán là Dubček sẽ nhận được ủng hộ toàn diện. Trong lúc đó Havel không có ủng hộ ngay cả từ phía gia đình của mình, vợ ông ta là bà Olga không đồng tình và mẹ vợ là bà Dagmar thậm chí nói thẳng cho ông ta biết là bà sẽ ủng hộ ông Dubček. Bản thân ông Havel cũng hoàn toàn không muốn tham gia các cuộc tranh luận chính trị trên các phương tiện thông tin đại chúng cùng với các ứng cử viên đối thủ của mình, nơi ông ta có thể thuyết phục giới cử tri, cho họ thấy ông ta là ứng cử viên ưu việt nhất, xứng đáng nhất. Ông Havel cho rằng việc ông ta lên giữ chức vụ tổng thống là điều hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi, điều này làm cho công việc của Diễn Đàn thêm khó khăn.
Đứng trước thế tiến thoái lưỡng nan này, phong trào dân chủ, trước hết là Diễn Đàn Công Dân, đột nhiên lại có thay đối chiến thuật, đòi hỏi phải có sự tiếp nối hiến pháp, tức là tuân thủ theo bản hiến pháp (Cộng Sản) đang có giá trị để tổ chức bầu cử tổng thống qua quốc hội. Thế là ở đây xuất hiện một nghịch lý lớn: phe dân chủ muốn giữ nguyên trạng hiến pháp của chế độ cũ, trong lúc đại diện của chế độ cũ lại đang nỗ lực tìm cách tiến hành những thay đổi lớn trong hệ thống hiến pháp.
Diễn Đàn Công Dân sớm nhận ra nghịch lý này, cho điều này là có “hơi kỳ một chút”. Họ giải thích là không phải mọi việc có vẻ dân chủ đều dân chủ, rằng tổng trưng cầu dân ý là một trong rất nhiều các phương tiện chính trị, bản thân nó không phải là tự hoàn hảo, tất cả phụ thuộc vào việc nó được dùng tới khi nào, họ cho rằng đây là thời điểm kém phù hợp nhất cho việc thay đổi hiến pháp một cách thiếu cân nhắc và miễn cưỡng, rằng thêm vào đó hiến pháp cần phải được thay đổi bới những người dân chủ, chứ không phải bởi đại diện của chế độ cũ.
Đó là các lý lẽ nói chung là đúng, nhưng không mấy thuyết phục. Giới chính trị đối lập hoàn toàn không muốn hiểu, còn người dân lại không có khả năng để hiểu được. Vì thế ủng hộ cho bầu cử trực tiếp không lắng xuống mà còn mạnh lên. Nhiều tổ chức và đoàn thể đứng về phía tổng trưng cầu dân ý (tức bầu cử trực tiếp), hoặc vì ngây thơ, thực lòng muốn góp sức cho một việc có ích, hoặc vì tính toán thực dụng. Trên báo chí xuất hiện kết quả các đợt lấy ý kiến người dân, cho thấy đại đa số dân chúng đồng tình với bầu cử trực tiếp. Mặc dù có cố gắng bằng nhiều cách, Diễn đàn công dân tiếp sau đó không thành công trong việc tìm kiếm ủng hộ của đông đảo quần chúng.
Ngay cả trong quốc hội thì cũng không có gì đảm bảo cho phong trào dân chủ. Khả năng để Diễn Đàn Công Dân tác động được đến Quốc Hội Liên Bang là rất nhỏ vì không có đại diện của mình trong cơ quan này. Trong số 350 thành viên của quốc hội thì đại đa số là đại diện của Đảng Cộng Sản, chỉ có nhóm 17 thành viên của Đảng Nhân Dân Séc-Slovakia và một vài đảng viên của Đảng Xã Hội là đại diện cho lực lượng dân chủ. Các ý tưởng của Diễn Đàn Công Dân chỉ được gián tiếp tuyên bố thông qua số ít các nghị sĩ của hai đảng này. Vũ khí duy nhất của phong trào dân chủ là tổng huy động quần chúng. Nhưng ngay sau khi thành lập “chính phủ thông hiểu dân tộc”, Diễn Đàn Công Dân lại đã có kêu gọi từ bỏ mọi hoạt động đình công, biểu tình dưới lý do nhanh chóng thiết lập ổn định ổn định trong nước, họ cũng cho rằng con đường đi tới tổng bầu cử tự do đã phong quang và chắc chắn. Mặc dù có đề xuất trước hết tái tổ chức cơ cấu nhân sự của quốc hội liên bang (tức là cách chức những nghị sĩ thoái hóa, thay bằng đại diện của Diễn đàn công dân và Công chúng chống bạo lực), rồi mới để quốc hội bầu ra tổng thống, cũng như một số đề xuất khác, công cuộc đàm phán vẫn là trong ngõ cụt, không có tiến triển gì.
Trong tình thế được coi là bất lợi mọi mặt cho phong trào dân chủ, ông Marian Calfa, thủ tướng chính phủ "Thông Hiểu Dân Tộc", một nhân vật trước đó kín tiếng, ít xuất hiện, chỉ được biết đến như một hình nộm tạm thời ngồi trên ghế thủ tướng bất quá là tới đợt tổng tuyển cử quốc hội sắp tới, đã vào cuộc. Cần nhắc thêm ở đây là trước đó, ông Calfa đã từng giữ chức thủ tướng chính phủ trong thời gian vài ngày (7.12.1989 – 10.12.1989) sau khi ông Ladislav Adamec, thủ tướng chính phủ Cộng Sản từ năm 1988, xin từ chức. Trong thời gian đàm phán về chuyển giao quyền lực, phe Cộng Sản đứng đầu là thủ tướng Ladislav Adamec đang thoái vị thấy cần thiết phải có một đại diện không những chỉ có năng lực chính trị mà chủ yếu phải có năng lực chuyên môn, nhất là trong lĩnh vực pháp lý để đưa Đảng Cộng Sản ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng. Ông Marian Calfa vì thế đã được ông Adamec đề xuất lên thay mình. Ông Calfa là một chuyên viên luật, từ năm 1988 giữ chức Bộ Trưởng Phụ Trách Pháp Lý đồng Chủ Tịch Ủy Ban Pháp Lý Nhà Nước. Nhiệm vụ quan trọng nhất mà ông Calfa được trung tâm quyền lực chế độ cũ trao cho là chuẩn bị thảo lập một bản hiến pháp mới. Bản hiến pháp mới này đã được đệ trình lên vào tháng 10 năm 1989, về cơ bản không khác gì mấy hiến pháp hiện hành từ năm 1960 và Pháp định về Liên Bang Séc-Slovakia từ năm 1968, chỉ được thay đổi một vài điểm có tính chất hình thức để phù hợp hơn với tình hình mới.
Từ cương vị thủ tướng chính phủ lâm thời của mình, ông Calfa theo dõi cuộc chiến xoay quanh bầu cử tổng thống một cách chăm chú. Khó khăn của phe dân chủ đã tạo cho ông ta một cơ hội can thiệp tích cực. Ông Calfa biết rõ rằng việc can thiệp của ông ta có thể có tính quyết định, đồng thời đó cũng là cơ hội để ông ta cho phe dân chủ thấy vị thế của mình. Động cơ đứng ra can thiệp được ông Calfa giải thích vắn tắt sau đó như sau: “Diễn Đàn Công Dân không làm thế nào để đưa ông Havel lên làm tổng thống”.

Václav Havel
Vào ngày 15.12, ông Calfa đã mời ông Havel đến trao đổi trong một gặp mặt chỉ có hai người với nhau. Như sau này kể lại, ông Calfa quyết định như vậy vì biết mình có vị trí đặc biệt mà diễn biến tình thế trong các tuần cuối đã đem lại cho ông ta, lúc đó ông ta đã nắm trọn trong tay mình hầu như mọi quyền lực quốc gia: với tư cách thủ tướng chính phủ ông ta đang đại diện cho tổng thống, tức là cũng nắm chức Tổng Chỉ Huy Quân Đội và Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Phòng Quốc Gia, ngoài ra còn cùng với hai phó thủ tướng chỉ đạo Bộ Quốc Phòng Liên Bang. Với các thẩm quyền đặc biệt, ông Calfa quyết định tiến hành công việc của mình, tính toán kỹ không để có kẽ hở. Các chuyên gia được gọi về từ Đan Mạch được ông ta trao cho nhiệm vụ tháo bỏ hệ thống nghe trộm trong một phòng họp của Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ. Tại đây, sáng ngày 15.12, ông Calfa đã gặp ông Havel và hứa tìm cách sắp xếp để Quốc Hội Liên Bang bầu ông Havel lên giữ chức vụ tổng thống trước khi năm 1989 kết thúc. Khi ông Havel nói lên suy nghĩ của mình là Quốc Hội với thành phần nhân lực hiện thời chắc không bao giờ lại bầu ông ta vào chức vụ tổng thống thì ông Calfa đáp lại như một chính khách sừng sỏ và từng trải, đại ý rằng "họ sẽ phải bầu thôi, dù sao các nghị sĩ cũng không phải là sắt đá, họ sẽ tính toán lại sẽ phải hứng chịu những gì nếu chống lại ... Ngoài ra Quốc Hội liên Bang không biết cách gây khó dễ, chưa bao giờ họ thử làm như thế, còn ta thì phải sử dụng họ trong đúng thành phần nhân lực như hiện tại, vốn quen thói thông qua mọi đề xuất mà những cá nhân có thế lực cao đưa ra ..."
Và thế là hai người đã thảo ra một kế hoạch sau đó được giữ kín giữa những cộng sự gần gũi nhất của họ. Thủ tướng hứa sẽ sắp xếp để các nghị sĩ Cộng Sản kết thúc mọi hoạt động có liên quan tới bầu cử trực tiếp, hoàn toàn tuân thủ theo ý nguyện của phong trào dân chủ, ông ta cũng sắp xếp để một nghị sĩ nào đó của Slovakia từ chức, đưa ông Alexander Dubček vào thế chân, những việc này phải được làm xong trước 19.12, ngày hai nghị viện của Quốc Hội Liên Bang bắt đầu phiên họp để lắng nghe tuyên bố về chương trình nghị sự của Chính Phủ Liên Bang, trong chương trình của chính phủ, thủ tướng sẽ kêu gọi các nghị sĩ quốc hội vì ổn định chính trị và đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa bầu ông Havel lên giữ chức vụ tổng thống trước khi năm 1989 kết thúc. Kế hoạch được kết thúc trong vòng hai tuần sau đó, vào ngày 28.12 với việc bầu ông Dubček làm Chủ Tịch Quốc Hội Liên Bang và bầu Havel làm Tổng Thống Liên Bang.
Ông Calfa quả đã tính toán tới từng chi tiết nhỏ nhất. Ông Havel khó có thể trở thành tổng thống vì ông ta đã từng là tội phạm: tháng 5.1989, trong một vụ án chính trị, tòa án Cộng Sản đã ban cho ông ta hình phạt có điều kiện. Để dẹp đi cản trở hình thức này, ông thủ tướng, với tư cách thay mặt cho tổng thống sẽ ra lệnh ân xá cho ông Havel. Tình thế quả thực là trái khoáy: một vài ngày sau cuộc gặp gỡ song phương, người giữ chức vụ cao nhất của chế độ mới nhận được qua đường bưu điện lệnh ân xá với chữ ký của một quan chức hành chính Cộng Sản!
Kế hoạch chung trên được hai bên tiến hành từ ngày 16.12. Việc khó nhất là thuyết phục các nghị sĩ để họ bỏ phiếu cho ông Havel. Trước một số cá nhân ông Calfa phải dùng đến áp lực. Chỉ có riêng ông ta mới biết rõ phương cách nào đã được ông ta dùng tới, tuy vậy ông ta đã nói sơ qua như là rất cứng rắn: “Tôi đã khá tàn nhẫn. Quả thực là thế. Đơn giản là có một số nghị sĩ cần thuyết phục … họ vốn cho rằng đó là lần bầu cử cuối cùng của họ tại Quốc Hội, và sau đó đúng là như thế. Còn tôi thì tôi quả thực đã rất ghê gớm, và tôi buộc phải nói là tôi đã lọt vào một tình thế không mong muốn chút nào, vì một mặt tôi là người Cộng Sản, còn mặt khác là một kẻ phản bội ghê gớm.”Trong nỗ lực này, ông Calfa đã được Chủ Tịch Đảng Xã Hội Séc-Slovakia, Đảng Nhân Dân Séc-Slovakia, các ông Bohuslav Kucera và Josef Bartoncík, những chính khách thay đổi tư tưởng chính trị, trước đó đã được bầu vào Ban Chủ Tịch Quốc Hội, giúp sức. Sau bốn ngày, mọi việc cơ bản đã được an bài.
Trong phiên họp vào ngày thứ ba, 19.12, Quốc Hội Liên Bang chỉ có hai mục làm việc – tuyên bố chương trình của chính phủ và dự luật đề xuất của nhóm nghĩ sĩ Đảng Nhân Dân về việc kéo dài thời gian bầu cử tổng thống. Phiên họp đã được truyền hình trực tiếp và có thể theo dõi được tại quảng trường Vaclav, nơi có hơn 100 nghìn sinh viên biểu tình ủng hộ ông Havel. Tất cả các nghĩ sĩ lên phát biểu trong ngày hôm đó, bao gồm cả các nghị sĩ Cộng Sản, đều nhất loạt ủng hộ ông Havel và nhất loạt đồng tình với việc bầu tổng thống trước khi năm 1989 kết thúc. Đại diện các đảng phái và phong trào chính trị tham gia đàm phán “bàn tròn” chính thức thông qua vào ngày 22.12 đồng thuận về các chức vụ quốc gia cao nhất – ông Dubček sẽ là Chủ Tịch Quốc Hội Liên Bang, ông Havel Tổng Thống Liên Bang Cộng Hòa. Ngày 28.12, trong một cuộc bỏ phiếu kín, Quốc Hội đã bầu đúng như vậy với 100% số phiếu thuận cho cả hai trường hợp.
Trên đây là những sự việc then chốt diễn ra tại chính trường Liên Bang Séc-Slovakia trong thời gian ngay từ 17.11 tới ngày ông Vaclav Havel được chính thức bầu làm tổng thống dân chủ đầu tiên của quốc gia này được miêu tả lại trong cuốn sách Mê Lộ Cách Mạng. Vai trò chính trị của ông Calfa là có tính quyết định cho diễn biến này. Tuy nhiên, xuất hiện những câu hỏi lớn về động cơ của ông Calfa trong "những đóng góp cho việc ổn định tình hình chính trị trong nước" và hoàn tất công cuộc trao nhận quyền lực. Tại sao ông ta làm vậy? Ông ta được gì trong thỏa thuận với ông Havel? Nội dung chính xác của thỏa thuận kia là gì? ... Theo tác giả của cuốn sách trên thì các câu trả lời là khá đơn giản: Ông Calfa vốn là một nhà chính trị thuộc nhóm thực tiễn, không bị mù quáng bởi lý tưởng và răn dạy của đảng Cộng Sản, ngay từ trước đó đã có sẵn nhìn nhận rằng thay đổi xã hội theo hướng dân chủ hóa là không thể tránh khỏi, vì thế đã có ít nhiều chuẩn bị sẵn sàng. Cũng là một nhà chính trị thực tiễn, ông ta đã từ bỏ ràng buộc đảng phái và chọn lấy chiến thuật tìm sống sót chính trị cho riêng mình trong tình hình chính trị mới (Ông Calfa không những không sống sót trên trường chính trị mà còn đạt được những thành công không dễ có được: không những là thủ tướng của chính phủ “thông hiểu dân tộc” lâm thời, ông tiếp tục giữ chức vụ thủ tướng trong nội các chính phủ tiếp theo (27.6.1990 – 2.7.1992). Trong thỏa hiệp với ông Havel, ông Calfa không đại diện cho Đảng Cộng Sản, mà chỉ có tư cách đại diện cho cơ cấu nhà nước mới và lợi ích của các cơ cấu này, một khi nhận được thức rằng khúc ngoặt là định đoạt, ông ta đã khôn ngoan quyết định đi theo hướng đi tất yếu của lịch sử, góp một tay cho phong trào dân chủ. Và theo thông tin tác giả Jiri Suk nhận được từ phía các bằng hữu của ông Havel thì yêu cầu đền đáp của ông Calfa chỉ có tính tượng trưng: ông ta đề nghị phong trào dân chủ, trước hết là Diễn Đàn Công Dân, thay đổi nhìn nhận không lấy gì làm tốt đẹp về mình.
Thực tế cho thấy lo lắng của Diễn Đàn Công Dân về khả năng ít thắng lợi của ông Havel trong một cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp là hoàn toàn có căn cứ. Ông Petr Pithart, một trong những lãnh đạo nòng cốt của Diễn Đàn Công Dân, cộng tác gần gũi của ông Vaclav Havel trong những năm then chốt 1989-1990 cho biết trong bài phỏng vấn đăng trên dennik.cz ngày 19.10.2009 (đã nói tới ở phần trên): thì trong những ngày đầu tiên của cách mạng, dân chúng ở Praha hô vang khẩu hiệu đòi ông Dubcek lên làm tổng thống. Sau khi biết tới những nhân vật chính của cuộc đảo chính xuất hiện, thì họ hô vang tên ông Komarek (Valt Komarek, giám đốc Viện dự đoán thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Séc-Slovakia, cũng là một trong những lãnh quan trọng của Diễn Đàn Công Dân, cũng đã được nhắc tới ở phần trên) chứ không phải tên ông Havel. Các cuộc thăm dò ý kiến dân chúng đầu tiên được tiến hành ở Séc sau ngày 17.11 cho thấy ông Komarek có ủng hộ cao nhất, sau đến Adamec (ứng cử viên Cộng Sản) và ông Dubček (chưa tính tới ủng hộ rất lớn cho ông Dubček) tại CH Slovakia, còn ông Havel chỉ được khoảng 2% cử tri ủng hộ.
Theo ông Jiri Abraham, tác giả bài viết “Những người anh hùng và những tên Giuđa năm 1989 hay mọi thứ đều là không phải như vậy. Sự thật về sự kiện 17.11.1989” đăng trên trang điện tử listopad.wordpress.cz đã nhắc tới ở phần trên, thì sự thực là hoàn toàn khác với các kết luận về thỏa thuận Havel-Calfa trong cuốn sách Mê Lộ Cách Mạng. Theo ông Abraham thì ông Calfa là một nhà chính trị rất có năng lực, nhưng cũng không kém phần khôn ngoan. Theo dõi sát sao cuộc tranh đấu chiếc ghế tổng thống, cũng như tình thế khó khăn của Diễn đàn công dân, ông ta nhận biết được thời điểm nên tỏ ra hào phóng, sẵn lòng giúp đỡ. Vì thế ông ta mới chủ động mời Havel tới gặp, cuộc gặp gỡ này thực chất bao gồm những thỏa hiệp sau:
1. Thống nhất là chức vụ tổng thống sẽ dành cho Vaclav Havel.
2. Thống nhất các điều kiện trao quyền lực chính trị cho Diễn Đàn Công Dân, một tổ chức ngờ nghệch, thiếu chuẩn bị, không có đường lối rõ ràng.
3. Điểm xuất phát là sự tiếp nối về mặt pháp lý hiến pháp và luật pháp Cộng Sản. Vì Quốc Hội Cộng Sản là cơ quan thể chế bầu lên tổng thống, nó sẽ nghiễm nhiên trở thành một bộ phận của hệ thống quyền lực nhà nước mới.
4. Những điều trên đồng nghĩa với:
a) Tổng thống của “Cách mạng Nhung” sẽ được bầu ra bởi đại diện của phe Cộng Sản,
b) Người của phe Cộng Sản được đảm bảo không bị truy kết tội phạm hình sự và được phép tiếp tục tham gia đời sống chính trị,
c) Bình đẳng trong kinh doanh kinh tế (thực chất là Cộng Sản có ưu thế nhờ vào của cải đã vơ vét, tích lũy được và những lợi thế khác).
Vì có sự tiếp nối luật pháp, thực chất người của phe Cộng Sản, trong bộ cánh mới có thay đổi tý chút, lại trở thành người cai quản công việc quản lý đất nước trong chế độ mới. Ngay sau đó, vào ngày 23.1.1990, Luật Định số 15/1990 về các đảng phái chính trị được Quốc Hội Liên Bang thông qua, thực chất của luật định này được cho là công nhận tính hợp pháp của Đảng Cộng Sản và đặt nó dưới đảm bảo luật pháp của các cơ quan nhà nước và hiến pháp. Như thế là “người của tướng Lorenc” và các đối tượng tương tự đã đạt được thắng lợi có lẽ không bao giờ họ ngờ tới.

Alexander Dubček
Theo thỏa hiệp giữa Calfa và Havel, ông Dubček, ứng cử viên nặng ký nhất cho chức vụ tổng thống, đã bị dẹp sang một bên, cho giữ chức Chủ Tịch Quốc Hội, tức là in hệt như năm 1969, sau ông khi mất chức bí thư Đảng Cộng Sản! Người ta còn an ủi, cho ông lời hứa rằng“sau ông Havel sẽ đến lượt ông”. Ông Abraham có thông tin rằng khi biết được sự việc, ông Dubček đã bật khóc, “với Dubček, đó là một sự sỉ nhục mà ông không còn đủ sức để khinh miệt, chỉ còn sức để khóc”. Tác giả bài báo còn cho biết trong thời gian là bác sĩ làm việc tại bệnh viện Na Homolce, ông Dubček được chở chuyển tới sau một tai nạn giao thông trầm trọng và ông ta đã khám bệnh cho ông Dubček. Trong một lần khám bệnh, ông Dubček có nói với ông rằng: “… sẽ có ngày tôi nói ra sự việc xảy ra thế nào …”, tuy nhiên, điều này không bao giờ xảy ra, vài ngày sau ông Dubček mất ở bệnh viện này.
Còn ông Zbynek Cerovky, tù nhân chính trị trong chế độ Cộng Sản, thành viên Hiến Chương 77, trong bài viết có tựa đề: “Sự thật về ngày 13.12.1989” đăng trên trang điện tử của Hiệp Hội Quốc Tế của Các Tù Nhân Chính Trị Séc-Slovakia trong thời trước (SZCPV) thì khẳng định vào ngày 13. 12. 1989, một số đại diện của Diễn Đàn Công Dân được ông Havel cử ra đã có một cuộc thỏa thuận mật với đại diện của phe Cộng Sản, đứng đầu là ông Vasil Mohorita, thành viên hội đồng chủ tịch Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia, và ông Jozef Hora, người phát ngôn của Đảng Cộng Sản, với nội dung bàn bạc cụ thể về các điều kiện cho việc bầu ông Vaclav Havel lên giữ chức vụ tổng thống thông qua bầu cử trong quốc hội. Điều kiện chủ yếu của phía Cộng Sản là bảo lưu tính toàn vẹn và bất khả xâm phạm của Bộ Nội Vụ và Quốc Phòng Liên Bang. Phía Diễn Đàn Công Dân đồng ý với điều kiện này. Sau cuộc thỏa thuận, hai bên đã ra một bản thông cáo ngắn, được Đài Tiếng Nói Séc-Slovakia phát đi, nhưng lại bác bỏ ngay sau đó. Biên bản của thỏa thuận này được đại diện hai bên trình lên cho ông Havel, một bản sau đó được gửi đi Mát-xơ-cơ-va. Khẳng định này cũng được ông Cerovsky viết tới trong một bức thư gửi cho ông Havel (tất nhiên là không nhận được trả lời), trong đó ông Cerovsky cũng tố cáo ông Havel là lẽ ra ông ta, với tư cách là một người đối kháng trong chế độ Cộng Sản, nay lên giữ trọng trách lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới, phải lên án và kết tội Cộng Sản, trước hết là người của An Ninh Nhà Nước StB, nhưng ngược lại, ông Havel lại trở thành người bảo vệ cho họ. Tiện ở đây có thể nhắc tới một chi tiết hết sức thú vị có liên quan với ông Zbynek Cerovsky: tháng 11 năm 1981, ông bị bắt và bị tòa án Cộng Sản đã khép tội ông có hoạt động chống đối nhà nước, tuyên án ông 2 năm tù giam, còn vị quan tòa ban hành bản án này hiện thời đang giữ chức chủ tịch tòa án huyện tại Pardubice, Cộng Hòa Séc!
Thực trạng có thất thoát, mất mát lớn trong lưu trữ tài liệu của các cơ quan có liên quan trực tiếp như Bộ Nội Vụ, An Ninh Nhà Nước StB, Đội An Ninh Quốc Gia SNB, Đảng Cộng Sản và một loạt các cơ quan, tổ chức khác được cho là một hệ quả trực tiếp của thỏa thuận chính trị nói trên, đặc biệt là trong liên quan tới tính toàn vẹn và bất khả xâm phạm của hai Bộ Nội Vụ và Quốc Phòng Liên Bang. Có nhiều tài liệu thuộc loại phải được công bố theo qui định của pháp luật tới nay vẫn không được các cơ quan có thẩm quyền trách nhiệm công bố đầy đủ hoặc gây nhiều khó dễ, trễ muộn trong việc công bố.
Theo Bản Phân Tích Sự Kiện 17.11.1989 của ông Miroslav Dolejsi, đã được nhắc tới ở phần trước thì khi ông Sacher, bộ trưởng Bộ Nội Vụ nhận được vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1990 một số tài liệu liên quan đến Hiến Chương 77, lực lượng nòng cốt điều hành Diễn Đàn Công Dân và hồ sơ cá nhân của một số người cầm đầu phong trào này, gồm chứa các thông tin nhạy cảm về quan hệ giữa Hiến Chương 77 với lãnh đạo trong Đảng Cộng Sản đã biến mất. Tổng thống Havel sau đó đã điều ông Jan Ruml lên giữ chức vụ phó bộ trưởng Bộ Nội Vụ Liên Bang. Trong thời gian sáu tuần ông này làm việc ở Bộ Nội Vụ, hơn 15 nghìn bộ tài liệu cá nhân (tức là hồ sơ tài liệu về các cá nhân An Ninh Quốc Gia StB có quan tâm tới) cũng biến mất. Tổng thống Havel cũng đích thân đứng ra yêu cầu Bộ Nội Vụ Liên Bang trao một số tài liệu cá nhân cho Hiến Chương 77 (các ông Uhl, Urban). Hơn thế nữa, tất cả các tài liệu liên quan đến các cuộc đàm phán giữa các lực lượng chính trị có ý nghĩa quyết định về việc giao nhận quyền lực sau sự kiện tháng 11.1989 cũng bị tiêu hủy. Điều này tạo ra rất nhiều nghi ngờ trong công chúng. Bản thân ông Havel cũng có hứa hẹn là sẽ cho công bố biên bản ghi chép các cuộc thương lượng bàn tròn trong các tháng 11 và 12, thời điểm có tính bước ngoặt của năm 1989, lời hứa này không được thực hiện.
Vào năm 2005, Oskar Krejcí, một nhà chính trị học, đã từng là cố vấn cho ông Ladislav Adamec, thủ tướng Liên Bang Séc-Slovakia trước tháng 11 năm 1989, đã nói:
"Sự thực là trong Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia đã có việc hủy hồ sơ giấy tờ trong hơn một tháng trời. Đồng thời cũng xảy ra việc tiêu hủy các tài liệu cá nhân tại bộ phận nhân sự. Đại diện của chế độ mới có biết về công việc này. Một phần lớn lưu trữ của An Ninh Nhà Nước còn giữ được thì được chuyển đi. Không phải là sang phương Đông. Một phần được giao nộp cho Viện Sử Học Đương Đại và biến mất trong thư viện. Tuy nhiên tồn tại các lưu trữ vẫn có thể tra cứu đến, chứa đầy những tin chứng không chỉ về chế độ cũ, mà cả về các sự kiện trong ngày 17.11.1989. Nếu điểm qua tiềm năng trí thức trong các ngành khoa học xã hội ở Séc, lượng phương tiện vật chất được dùng tới để tìm hiểu sự kiện này cũng như các lợi ích chính trị đang trong cuộc thì tôi có thể đảm bảo rằng chúng ta sẽ không biết được sự thật về sự kiện 17.11.1989.” (trang điện tử zivot.azet.sk ngày 17.11.2013)
Để nhận xét chung về diễn biến tại Liên Bang Séc-Slovakia sau năm 1989 trong mối liên hệ này thì quả thực có thể thấy rõ là người của phe Cộng Sản rất nhanh chóng thích ứng với tình hình mới, nhanh chóng rũ bỏ liên hệ đảng phái cũ, sử dụng triệt để kinh nghiệm cùng các lợi thế mọi mặt của mình để tiếp tục tham gia, nắm giữ các vị trí quan trọng, thậm chí then chốt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, xã hội và kinh tế quốc gia. Có thể nói là không chỉ có giới đảng viên Cộng Sản mà ngay cả các cá nhân đã trực tiếp làm việc hay cộng tác với An Ninh Nhà Nước StB trong chế độ cũ đều không bị bất kỳ một phân biệt đối xử nào từ phía xã hội, chính quyền hay pháp luật, cũng không phải chịu bất kỳ hạn chế, thiệt thòi nào trong đời sống, công việc hay sự nghiệp. Nhiều người trong số họ còn là lực lượng nòng cốt đứng ra thành lập và tham gia các đảng phái chính trị hiện đại theo hình mẫu phương Tây, với chương trình hoạt động hiện đại, thức thời. Hoàn toàn không có gì là quá thái khi định phần lớn giới lãnh đạo nhà nước cấp cao nhất trong Liên Bang Séc-Slovakia và sau này tại hai nước CH Séc và CH Slovakia trong những năm sau cách mạng cũng như trong các thập kỷ sau đó đều có quá khứ liên quan ít hay nhiều với Đảng Cộng Sản, Đoàn Thanh Niên XHCN hay các tổ chức Cộng Sản quan trọng khác.
Cũng không có gì là quá thái khi nhận định rằng phe CS quả thực hoàn toàn không bị qui tội, chịu trách nhiệm cho những tội ác hay sai lầm nghiêm trọng của họ trong quá khứ. Thí dụ như tại CH Séc, Ủy Ban Lưu Trữ Tài Liệu và Điều Tra Tội Ác của chủ nghĩa Cộng Sản được thành lập ngày 1.1.1995 cho sứ mệnh phát hiện và tố cáo các tội ác hình sự không được xét xử vì những lý do chính trị trong thời kỳ 25.2.1948 – 29.12.1989. Từ khi được thành lập cho tới ngày 31.5.2013, có 82 đơn tố cáo liên quan tới 110 cá nhân đã được gửi tới các cơ quan có thẩm quyền xét xử, trên cơ sở đó chỉ có 9 người bị kết tội vô điều kiện và 30 người bị kết tội có điều kiện. Hoạt động của ủy ban này bị nhiều tổ chức lên án gay gắt, điển hình là Liên Đoàn Tù Nhân Chính Trị Séc (trang viết về ủy ban này trên Wikipedia tiếng Séc).

Thay cho lời kết

Chủ Nghĩa Cộng Sản hiện nay chỉ còn tồn tại ở một số rất ít quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Triều Tiên, ..., tuy nhiên sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ và tan rã, đó là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được của thời đại. Vì công việc chuyển giao quyền lực là một quá trình vô cùng khó khăn và phức tạp, lại có tác động quá rộng khắp, quá sâu sắc tới mọi phương diện của đời sống xã hội không chỉ trong hiện tại, mà còn trong tương lai nên việc nghiên cứu các kinh nghiệm cũng như các đánh giá quá trình chuyển giao quyền lực ở các nước Cộng Sản cũ tại Đông Âu từ mọi phương diện, mọi cách tiếp cận và nhìn nhận là hết sức cần thiết, không bao giờ là có hại mà ngược lại, có thể đem lại cho chúng ta nhiều bài học bổ ích, có thể lưu ý chúng ta về những khía cạnh tế nhị, tinh vi dễ bị bỏ qua. Đó cũng là mục đích của bài biên dịch này.
Trần Hoàng

Trần Hoàng biên dịch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét